Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Sự mới cập nhật tích hợp của sách giáo khoa.

Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên canh tân lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh hết sức khó khăn, nhưng nền móng tri thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều tuấn kiệt phục vụ sự nghiệp phát triển giang sơn. Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khơi gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống từng lớp.

"Muốn thắng trong kinh tế, trước nhất phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ mục tiêu giáo dục. Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn mực trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận hiện nay.

Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình nhận thức của học trò, chứa đựng hàm lượng căn bản nhất về kiến thức và là nền móng của tư duy sau này của đời người. Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lịch trình cụ thể thì công cuộc canh tân giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các đời người Việt trong mai sau.

Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - từng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai. Ba cuộc cách tân giáo dục phổ thông đã làm tròn sứ mạng trong những giai đoạn lịch sử khăng khăng. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, GS. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ thông.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp tri thức, được soạn với mục đích dạy và học.

Đặc biệt, phải xác định rõ mục tiêu giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn chung cuộc trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục.

Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều thế hệ trong một gia đình gìn giữ, chuyền tay nhau học tập. Không ít kinh nghiệm biên soạn SGK của nước ngoài đã được hấp thụ và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã tham dự biên soạn và thẩm định bộ SGK này. Thứ ba, những tri thức sử dụng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, do vậy bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối.

Tại sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham gia của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã cương trực nêu lên 6 vấn đề của SGK hiện thời.

Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Những cuốn sách giáo khoa trước hết viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950.

Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân thắng lợi tiến về Thủ đô", để thống nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cải cách giáo dục mới được tiến hành. Tiếp đó, sau 4 năm phóng thích miền Nam thống nhất sơn hà, năm 1979, nhằm hợp nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cách tân giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm.

Lần cải cách SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hành một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, soạn tài liệu dạy thể nghiệm rồi mới làm SGK chính thức.

Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần cách tân giáo dục phổ thông là một lần… thay đổi sách giáo khoa.

Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến bất tận của tri thức, không thể tiếp chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy kiến thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập suy nghĩ và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng nghĩa vụ với tổ quốc, với dân tộc.

Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Để điều đó trở thành hiện thực thì không chỉ tạo lập cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải thay đổi tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cải cách giáo dục đến với học sinh).

Với một chương trình giáo dục không còn ăn nhập với từng lớp hiện đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì hẳn nhiên phải thay đổi. Thứ tư, SGK hiện thời thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình.

Nếu chỉ quan hoài đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục nhân cách, lối sống với giáo dục kiến thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hiện.

TS Trần hoá nhi, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chằm chặp nghĩ đến chuyện viết lại SGK.

Thứ năm, thiếu tính liên thông về tri thức. Trong kháng chiến chống Pháp, với đích xây dựng một nền giáo dục phù hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc canh tân giáo dục trước nhất.

Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên kiến thức bị phân khúc, tách rời, gián đoạn. Then chốt của giáo dục là dạy người và dạy làm người.

Nếu không có những người thầy nhiệt huyết, trí tuệ sẽ không có những tư cách, những anh tài cho sơn hà. Thế nên đổi mới giáo dục chẳng thể tách rời việc cải cách sư phạm.

Kinh nghiệm từ những lần cách tân giáo dục trong lịch sử cũng như những lần thay đổi SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi".

Thứ hai, SGK hiện thời định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc kiến thức (ví dụ, ngoại ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống ngày nay nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).

Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về tri thức nhưng ngày càng xa rời thực tế và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học sinh; nội dung thay đổi và cải cách quá nhiều trong thời gian ngắn; khâu tổ chức biên soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khiếm khuyết hoặc quá thừa không chỉ làm hoang phí tiền nong, thời gian mà còn đặt lên vai học sinh, đay những áp lực không đáng có.

Chúng ta đang giáo dục con người theo cách tiêu cực. Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều kiến thức, kể cả thiếu một số môn mấu chốt về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo. Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ biến 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến.

Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn nối phải hy vọng! nền tảng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn mực? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu đáp xác thực.

Theo Phó Chủ tịch Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của đay và cộng đồng". Thế nhưng đổi thay ra sao, trên nền móng nào, thực hành vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề. Thứ sáu, việc chọn lọc khối lượng và thuộc tính các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tiễn… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng thừa nhận: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học trò mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là khôn xiết cấp thiết.

Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những kiến thức căn bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng đích đào tạo nguồn nhân lực của giang san chứ không phải là sự chắp vá, vay mượn hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.

Tuy nhiên, sau một thời gian "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học sinh, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho tầng lớp.

Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là yếu tố để chấn hưng văn hóa, giữ giàng và phát huy các giá trị Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét